Lời Chúa hằng ngày: Ngày 24 tháng 12: Lời kinh Benedictus (Lc 1,67-79)

“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen,
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người”.
(Lc 1,68)

 

 

Nghe lời Chúa MP3

 

 

BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12.14a.16

“Vương quốc Đavít sẽ tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời”.

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Khi ấy vua Đavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: “Ông thấy không ? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư ?” Nathan trả lời với vua rằng: “Điều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”.

Nhưng xảy ra (là) đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: ‘Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng ?’ Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29

Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).

Xướng:

1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Đáp.

2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. - Đáp.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Đáp.

 

Tin mừng: Lc 1, 67-79

67 Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:

68 “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen

đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.

69 Từ dòng dõi trung thần Đavít,

Người đã cho xuất hiện

Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,

70 như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ

mà phán hứa tự ngàn xưa:

71 sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,

thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;

72 sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên

và nhớ lại lời xưa giao ước;

73 Chúa đã thề với tổ phụ Ápraham

rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,

74 và cho ta chẳng còn sợ hãi,

75 để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,

mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.

76 Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu

là ngôn sứ của Đấng Tối Cao:

con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,

77 bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ

là tha cho họ hết mọi tội khiên.

78 Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,

cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,

79soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối

và trong bóng tử thần,

dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.”

 

Giáo lý cho bài giảng Lễ Chúa Giáng Sinh

WHĐ (21/12/2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.

 
 

Số 456-460, 466: Tại sao Ngôi Lời làm người?

Số 461-463, 470-478: Nhập Thể

Số 437, 525-526: Mầu nhiệm Giáng Sinh

Số 439, 496, 559, 2616: Chúa Giêsu là Con vua Đavid

Số 65, 102: Thiên Chúa đã phán dạy mọi sự trong Ngôi Lời của Ngài

Số 333: Ngôi Lời nhập thể được tôn thờ bởi các Thiên thần

Số 1159-1162, 2131, 2502: Việc Nhập Thể và các ảnh tượng của Đức Kitô

Bài đọc Thánh lễ vọng

Bài đọc Thánh lễ ban đêm

Bài đọc Thánh lễ rạng đông

Bài đọc Thánh lễ ban ngày

 

Số 456-460, 466: Tại sao Ngôi Lời làm người?

  1. Cùng với Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”[1].
  2. Ngôi Lời đã làm người để cứu độ chúng ta, bằng cách giao hòa chúng ta với Thiên Chúa: Thiên Chúa “đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4,14). “Chúa Giêsu đã xuất hiện để xoá bỏ tội lỗi” (1 Ga 3,5):

“Bản tính chúng ta vì bệnh tật nên cần được chữa lành, vì sa ngã nên cần được nâng dậy, vì đã chết nên cần được phục sinh. Chúng ta đã đánh mất việc thông phần vào sự thiện, nên cần được dẫn trở về sự thiện. Chúng ta bị vây hãm trong bóng tối, nên cần đến ánh sáng. Chúng ta bị tù đầy nên mong người cứu chuộc; bị thua trận, nen cần người trợ giúp, bị áp bức dưới ách nô lệ nên chờ người giải phóng. Đó lại là những lý do nhỏ bé và không xứng đáng để làm cho Thiên Chúa động lòng hay sao? Những lý do ấy không đủ để Thiên Chúa xuống viếng thăm bản tính nhân loại, trong lúc nhân loại đang ở trong tình trạng khốn cùng và bất hạnh hay sao?”[2]

  1. Ngôi Lời đã làm người để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,l6).
  2. Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho chúng ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga l4,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền: “Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)[3]. Người đúng là gương mẫu của các mối phúc thật và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga l5,l2). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự hiến thân để đi theo Người[4].
  3. Ngôi Lời đã làm người để làm cho chúng ta được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr l,4). “Chính vì điều này mà Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người, Đấng là Con Thiên Chúa trở nên Con Người, đó là để cho loài người, khi kết hợp với Ngôi Lời của Thiên Chúa và nhận quyền làm nghĩa tử, thì được trở nên con cái Thiên Chúa”[5]. “Chính Người đã làm người, để chúng ta được trở thành những vị thần”[6]. “Con Một Thiên Chúa, bởi muốn cho chúng ta được tham dự vào thần tính của Người, nên đã mang lấy bản tính của chúng ta, để Đấng đã làm người, làm cho người ta trở thành những vị thần”[7].
  4. Lạc thuyết cua Nestôriô cho rằng trong Đức Kitô ngôi vị nhân loại được liên kết với Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Chống lại lạc thuyết này, Thánh Cyrillô Alêxanđria và Công đồng chung thứ III họp tại Êphêsô năm 431 tuyên xưng rằng: “Ngôi Lời đã làm người, khi một thân thể do một linh hồn có lý trí làm cho sống động được kết hợp với Ngài theo Ngôi Vị”[8]. Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã nhận lấy nhân tính ấy làm của mình từ lúc tượng thai. Chính vì vậy, Công đồng chung Êphêsô vào năm 431 công bố rằng Đức Maria, nhờ sự tượng thai nhân loại của Con Thiên Chúa trong lòng bà, bà đã rất thật sự trở thành Mẹ Thiên Chúa: “[Đức Maria là] Mẹ Thiên Chúa…, không phải vì bản tính của Ngôi Lời và thần tính của Ngài đã bắt đầu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ rất thánh, nhưng vì từ Đức Trinh Nữ đã sinh ra thân xác thánh thiêng đó, do một linh hồn có lý trí làm cho sống động, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với thân xác đó theo Ngôi Vị, nên có thể nói Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác phàm”[9].

 

Số 461-463, 470-478: Nhập Thể

  1. Lấy lại cách nói của thánh Gioan (“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể”: Ga 1,14), Hội Thánh dùng từ “Nhập Thể” để gọi sự kiện Con Thiên Chúa nhận lấy bản tính nhân loại, để thực hiện việc cứu độ chúng ta trong bản tính ấy. Trong một thánh thi do thánh Phaolô ghi lại, Hội Thánh hát mừng mầu nhiệm Nhập Thể như sau:

“Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu: Chúa Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8)[10].

  1. Thư gửi tín hữu Do Thái cũng nói về mầu nhiệm ấy như sau:

“Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7, trích Tv 40,7-9, bản LXX).

  1. Tin vào việc Nhập Thể thật của Con Thiên Chúa là dấu hiệu đặc trưng của đức tin Kitô giáo. “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa: Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến, và trở nên người phàm, thì Thần Khí ấy bởi Thiên Chúa” (l Ga 4,2). Đó cũng là niềm xác tín hân hoan của Hội Thánh ngay từ buổi đầu, khi hát mừng “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”: “Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm” (1 Tm 3,16).

Con Thiên Chúa làm người như thế nào?

  1. Trong sự kết hợp kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập Thể, “bản tính nhân loại được đảm nhận, chứ không bị hoà tan”[11], nên qua các thế kỷ, Hội Thánh hằng tuyên xưng Chúa Kitô có một linh hồn nhân loại thật với các hoạt động của trí tuệ và ý chí, và một thân xác nhân loại thật. Nhưng đồng thời Hội Thánh đã phải luôn nhắc lại rằng bản tính nhân loại của Đức Kitô thuộc hẳn về Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã đảm nhận nó. Tất cả những gì Đức Kitô là và tất cả những gì Người làm trong bản tính nhân loại, đều xuất phát từ “một Đấng trong Ba Ngôi Thiên Chúa”. Vì vậy, Con Thiên Chúa truyền thông cho nhân tính của Người cách thức hiện hữu riêng của Ngôi Vị mình trong Ba Ngôi. Như vậy, trong linh hồn cũng như trong thân xác của Người, Đức Kitô diễn tả theo cách thế nhân loại cung cách hành xử của Thiên Chúa Ba Ngôi[12]:

“Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay nhân loại, suy nghĩ bằng trí óc nhân loại, hành động theo ý chí nhân loại, yêu mến bằng quả tim nhân loại. Sinh làm con Đức Trinh Nữ Maria, Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta trong mọi sư, ngoại trừ tội lỗi”[13].

Linh hồn và tri thức nhân loại của Đức Kitô

  1. Apôlinariô Laođicensê cho rằng trong Đức Kitô, Ngôi Lời đã thay thế linh hồn hay tinh thần. Để chống lại điều sai lạc này, Hội Thánh tuyên xưng: Ngôi Con hằng hữu cũng đã đảm nhận một linh hồn nhân loại có lý trí[14].
  2. Linh hồn nhân loại này, mà Con Thiên Chúa đã đảm nhận, đã được phú bẩm một tri thức nhân loại thật sự. Tri thức này, theo đúng nghĩa, tự nó không thể có tính chất vô hạn: nó được hình thành trong các điều kiện lịch sử của cuộc sống trong không gian và thời gian. Do đó, Con Thiên Chúa khi làm người, đã có thể chấp nhận “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa” (Lc 2,52) và thậm chí Người còn phải tìm hiểu về những điều mà trong điều kiện nhân loại, phải được học hỏi qua kinh nghiệm[15]. Điều này phù hợp với việc Người tự nguyện hạ mình “mặc lấy thân nô lệ”[16].
  3. Nhưng, đồng thời, tri thức nhân loại thật sự này của Con Thiên Chúa cũng diễn tả sự sống thần linh của Ngôi Vị của Người[17]. “Con Thiên Chúa biết hết mọi sự; và con người mà Người tiếp nhận cũng biết như thế, không phải do bản tính, nhưng do kết hợp với Ngôi Lời. Nhân tính, được kết hợp với Ngôi Lời, biết hết mọi sự và biểu hiện những đặc tính thần linh xứng với uy quyền nơi mình”[18]. Trước hết, đó là trường hợp Con Thiên Chúa làm người có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp về Cha của Người[19]. Trong tri thức nhân loại của mình, Chúa Con cũng cho thấy Người có khả năng thần linh nhìn thấu những tư tưởng thầm kín trong lòng dạ người ta[20].
  4. Tri thức nhân loại của Đức Kitô, vì được kết hợp với Đức Khôn Ngoan thần linh trong Ngôi Lời nhập thể, hiểu biết đầy đủ các kế hoạch vĩnh cửu mà Người đến để mạc khải[21]. Điều Người nói là Người không biết trong lãnh vực này[22], thì ở chỗ khác Người tuyên bố là Người không có sứ vụ mạc khải điều ấy[23].

Ý muốn nhân loại của Đức Kitô

  1. Một cách tương tự, trong Công đồng chung thứ VI, Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Đức Kitô có hai ý muốn và hai hoạt động theo hai bản tính Thiên Chúa và nhân loại, không đối kháng nhưng hợp tác với nhau, cho nên Ngôi Lời làm người, trong sự phục tùng theo nhân tính đối với Chúa Cha, đã muốn điều mà Người đã quyết định, theo thần tính, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, về ơn cứu độ chúng ta[24]. Hội Thánh nhận biết rằng “ý muốn nhân loại của Người luôn theo ý muốn thần linh, không miễn cưỡng, không đối kháng, và hơn nữa, ý muốn nhân loại của Người đã phục tùng ý muốn thần linh và toàn năng của Người”[25].

Thân xác thật của Đức Kitô

  1. Bởi vì Ngôi Lời đã làm người khi đảm nhận một nhân tính thật, nên thân xác của Đức Kitô có những nét xác định rõ ràng[26]. Do đó, dung nhan nhân loại của Chúa Giêsu có thể được “hoạ lại”[27] Trong Công đồng chung thứ VII[28], Hội Thánh công nhận việc Người được trình bày qua các ảnh tượng thánh là hợp pháp.
  2. Đồng thời, Hội Thánh cũng luôn luôn công nhận: trong thân xác của Chúa Giêsu, “Thiên Chúa vốn là Đấng vô hình, đã xuất hiện hữu hình cho chúng ta”[29]. Thật vậy, các đặc điểm cá nhân của thân xác Đức Kitô diễn tả Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhận làm của mình những nét nhân dạng của thân xác Người, cho nên khi được hoạ lại nơi một ảnh tượng thánh nào đó, những nét này có thể được tôn kính, bởi vì khi tín hữu tôn kính ảnh tượng thánh, là họ “tôn thờ chính Đấng mà ảnh tượng thánh ấy diễn tả”[30].

Trái tim của Ngôi Lời nhập thể

  1. Trong cuộc đời của Người, trong lúc Người hấp hối và trong lúc Người chịu khổ nạn, Chúa Giêsu biết và yêu thương mọi người và từng người chúng ta, và Người đã tự hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Con Thiên Chúa “đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu mến tất cả chúng ta bằng một trái tim nhân loại. Do đó Trái Tim cực thánh của Chúa Giêsu, bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta và để cứu độ chúng ta[31], “được coi là dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt của tình yêu, qua đó Đấng Cứu Chuộc thần linh hằng liên lỉ yêu mến Chúa Cha vĩnh cửu và yêu mến tất cả mọi người”[32].

 

Số 437, 525-526: Mầu nhiệm Giáng Sinh

  1. Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[33]. Thánh Giuse được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đavid.[34]
  2. Chúa Giêsu đã ra đời trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa, trong một gia đình nghèo[35]; các mục đồng chất phác là những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này mà vinh quang thiên quốc được tỏ lộ[36]. Hội Thánh không ngừng hoan hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:

“Hôm nay Đức Trinh Nữ sinh hạ Đấng Hằng Hữu, và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn. Các Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người, các đạo sĩ tiến bước theo ánh sao: bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu, đã được sinh ra cho chúng ta!”[37]

  1. “Trở nên trẻ nhỏ” trong tương quan với Thiên Chúa là điều kiện để vào Nước Trời[38]; để được vậy, cần phải tự hạ[39], phải trở nên bé mọn; hơn nữa, còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên Chúa[40] để trở nên con cái Thiên Chúa[41]. Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Kitô “được thành hình” nơi chúng ta[42]. Việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:

“Cuộc trao đổi sao mà kỳ diệu! Đấng Tạo Hoá của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn, khấng hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân, Người đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người”[43].

 

Số 439, 496, 559, 2616: Chúa Giêsu là Con vua Đavid

  1. Nhiều người Do Thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Israel, đã nhận ra nơi Chúa Giêsu những nét cơ bản của “Con vua Đavid”, Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Israel[44]. Chúa Giêsu đã chấp nhận danh hiệu Messia, Người có quyền làm như vậy[45], nhưng Người chấp nhận một cách dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một quan niệm quá phàm trần[46], đặc biệt mang tính chất chính trị.[47]
  2. Ngay trong các công thức đức tin đầu tiên[48], Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng định khía cạnh thể lý của biến cố này: Chúa Giêsu được thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm giống nam nhân”[49]. Các Giáo Phụ nhận ra việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên Chúa thật sự đã đến trong bản tính nhân loại như chúng ta.

Thánh Ignatiô Antiôchia (đầu thế kỷ II) dạy: “Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa chúng ta, thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đavid theo xác phàm[50], là Con Thiên Chúa theo ý định và quyền năng Thiên Chúa[51], Người đã thật sự được sinh ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân xác vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô…. Người đã thật sự chịu khổ hình cũng như đã thật sự sống lại”[52].

  1. Giêrusalem sẽ đón nhận Đấng Messia của mình như thế nào? Chúa Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua[53], đã chọn thời điểm và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavid, tổ tiên Người” (Lc l,32) với tư cách là Đấng Messia[54]. Người được dân chúng hoan hô như con vua Đavid, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosannacó nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv 24,7-l0) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Sion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự that[55]. Vì vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em[56] và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng[57]. Lời tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.
  2. Lúc Người còn đang thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với Chúa Giêsuđã được chính Người nhận lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giêsu nhận lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời nói (của người bệnh phong[58], của ông Giairô[59], của người phụ nữ Canaan[60], của người trộm lành[61]), hay trong thinh lặng (của những kẻ khiêng người bất toại[62], của người đàn bà bị bệnh loạn huyết đụng chạm vào áo Người[63], nước mắt và dầu thơm của người phụ nữ tội lỗi[64]). Lời nài xin tha thiết của những người mù: “Lạy Con Vua Đavid, xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy Ông Giêsu, Con Vua Đavid, xin rủ lòng thương tôi” (Mc 10,48) được sử dụng lại trong truyền thống Khẩn nguyện Chúa Giêsu (Oratio ad Iesum): “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Chúa Giêsu luôn đáp lại lời cầu xin Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.

Thánh Augustinô đã khéo léo tóm tắt ba chiều kích của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Người cầu nguyện cho chúng ta, vì Người là vị Tư Tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta vì Người là Đầu của chúng ta; Người được chúng ta cầu nguyện, vì Người là Thiên Chúa của chúng ta. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng nói của chúng ta trong Người, lẫn tiếng nói của Người trong chúng ta”[65].

 

Số 65, 102: Thiên Chúa đã phán dạy mọi sự trong Ngôi Lời của Ngài

  1. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông ta qua các tiên tri ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhất, hoàn hảo và cao cả nhất của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa đã nói tất cả, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó. Sau bao vị khác, thánh Gioan Thánh giá đã diễn tả điều này một cách rõ ràng, khi chú giải câu Dt 1,1-2:

“Từ khi Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Ngài, Đấng là Lời duy nhất và dứt khoát của Ngài, Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lần duy nhất trong Lời này và Ngài không còn gì để nói thêm nữa. Những gì trước kia Ngài chỉ nói từng phần qua các tiên tri, thì nay Ngài đã nói hết trong Đấng mà Ngài đã trao ban trọn vẹn cho chúng ta, tức là Con của Ngài. Do đó, bây giờ mà có ai còn muốn hỏi Thiên Chúa điều gì hoặc nài xin Ngài một thị kiến hay mạc khải nào nữa, thì người ấy chẳng những làm một chuyện điên rồ, mà xem ra còn xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi không chăm chú nhìn vào Đức Kitô mà lại tìm kiếm một cái gì khác hoặc một điều mới lạ ngoài Đức Kitô”[66].

  1. Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói một Lời, là (Ngôi) Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả về chính mình Ngài[67]:

“Anh em hãy nhớ rằng một Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Thánh Kinh, một Lời duy nhất vang trên môi miệng của các Thánh. Lời này lúc khởi đầu là Thiên Chúa hướng về Thiên Chúa, lúc ấy Lời không có các âm vận, bởi vì Ngài không lệ thuộc thời gian”[68].

 

Số 333: Ngôi Lời nhập thể được tôn thờ bởi các Thiên thần

  1. Từ cuộc Nhập Thể cho tới cuộc Thăng Thiên, cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể được hầu cận bằng sự tôn thờ và phục vụ của các Thiên thần. “Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa nói: ‘Mọi Thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người’” (Dt 1,6). Ca khúc ngợi khen của các Thiên thần khi Đức Kitô giáng sinh không ngừng vang vọng trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa…” (Lc 2,14). Các Thiên thần bảo vệ Chúa Giêsu khi Người còn thơ ấu[69],phục vụ Người trong hoang địa[70], an ủi Người trong cơn hấp hối[71], khi Người đã có thể được các vị cứu khỏi tay kẻ thù[72], như dân Israel xưa[73]. Các Thiên thần cũng rao giảng Tin Mừng ”[74] khi loan báo Tin Mừng về việc Nhập Thể[75]và về việc Phục Sinh của Đức Kitô[76]. Các ngài loan báo việc Đức Kitô lại đến[77], và khi Người đến, các ngài sẽ có mặt để phục vụ việc xét xử của Người[78].

 

Số 1159-1162, 2131, 2502: Việc Nhập Thể và các ảnh tượng của Đức Kitô

  1. Ảnh tượng thánh, ảnh tượng phụng vụ, chủ yếu trình bày Đức Kitô. Ảnh tượng không thể trình bày Thiên Chúa vô hình và khôn tả; việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã mở đầu một “nhiệm cục” mới của các ảnh tượng:

“Xưa kia Thiên Chúa, Đấng không có thân xác và diện mạo, không bao giờ được trình bày bằng ảnh tượng. Nhưng nay, sau khi Người đã tự trở nên hữu hình trong xác phàm và sống giữa loài người, tôi có thể họa một hình ảnh về điều tôi thấy nơi Thiên Chúa…. Vậy sau khi dung nhan được mạc khải, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Chúa”[79].

  1. Nghệ thuật ảnh tượng Kitô giáo dùng hình ảnh để truyền đạt sứ điệp Tin Mừng, sứ điệp mà Sách Thánh lưu truyền bằng lời. Hình ảnh và lời nói làm sáng tỏ lẫn nhau:

“Chúng tôi tuyên bố cách vắn tắt rằng, chúng tôi gìn giữ nguyên vẹn mọi truyền thống hoặc thành văn, hoặc bất thành văn của Hội Thánh, đã được ký thác cho chúng tôi. Một trong những truyền thống này là việc sử dụng ảnh tượng, vốn phù hợp với việc rao giảng lịch sử Tin Mừng. Việc sử dụng ảnh tượng góp phần nói lên sự chắc chắn xác thực, chứ không phải chỉ là dáng vẻ, của việc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, và góp phần mang lại lợi ích cho chúng tôi. Những gì soi sáng cho nhau, thì chắc chắn có những ý nghĩa hỗ tương”[80].

  1. Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về Đức Kitô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Đức Kitô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, điều được mạc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”[81], và cả các Thiên thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Kitô:

“Theo giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh), chung tôi ấn định với tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và ban sự sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tường và các bức hoạ, trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính”[82].

  1. “Vẻ đẹp và màu sắc của các ảnh tượng kích thích việc cầu nguyện của tôi. Đó là một bữa tiệc làm no thoả mắt tôi, cũng như quang cảnh đồng quê kích thích trái tim tôi ca tụng Thiên Chúa”[83]. Việc chiêm ngắm các ảnh tượng thánh, cùng với việc suy niệm Lời Chúa và việc ca hát các thánh thi phụng vụ, sẽ tạo nên một sự hoà hợp các dấu chỉ trong cuộc cử hành, làm cho mầu nhiệm được cử hành in sâu vào tâm khảm các tín hữu, rồi được biểu lộ ra trong đời sống mới của họ.
  2. Công đồng chung thứ bảy, ở Nicêa (năm 787), dựa vào mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, đã biện minh cho việc sùng kính ảnh tượng thánh, như ảnh tượng Đức Kitô, và cả ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa, các Thiên thần và tất cả các Thánh, chống lại những người bài ảnh tượng. Nhờ cuộc Nhập thể của mình, Con Thiên Chúa đã khai mở một “nhiệm cục” về các ảnh tượng.
  3. 2502Nghệ thuật thánhsẽ thật và đẹp, khi nhờ hình thức thích hợp, nó đáp ứng với ơn gọi riêng của nó: trong đức tin và trong sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu, đã xuất hiện nơi Đức Kitô, Đấng “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3), “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9), Người là vẻ đẹp thiêng liêng đang toả chiếu nơi Đức Trinh Nữ rất thánh Mẹ Thiên Chúa, nơi các Thiên thần và các Thánh. Nghệ thuật thánh đích thực đưa con người đến việc tôn thờ, việc cầu nguyện và việc yêu mến Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá và Cứu Độ, Đấng Thánh Thiện và Thánh Hóa.

 

 

Bài giảng Đức Thánh Cha – Lễ Đêm Giáng Sinh

NỘI DUNG CHÍNH

Đức Phanxicô, Lễ đêm Giáng sinh năm 2023 – Điều tra dân số trên toàn cõi đất

Đức Phanxicô, Lễ đêm Giáng sinh năm 2022: Máng cỏ muốn nói với chúng ta điều gì?

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2021: Thiên Chúa muốn hạ mình, còn chúng ta lại muốn trèo cao

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2020: Con Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái Thiên Chúa

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2019: Tình yêu Thiên Chúa là ân sủng nhưng không

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2018: Bêlem có nghĩa là ngôi nhà bánh

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2017: Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2016: Mầu nhiệm Giáng Sinh chất vấn và khuấy đảo chúng ta

Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2015: Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực

 

 

 

  1. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
  2. Phân tích (Hạt giống...)

Những ý lớn trong bài ca của Dacaria:

  1. Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa cứu rỗi mà Ngài đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các ngôn sứ.
  2. Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện, mở màn một kỷ nguyên mới.
  3. Gioan sẽ là vị tiền hô cho Ngài: mở lối cho Ngài đi, và báo tin vui cứu rỗi cho nhân loại.
  4. Suy gẫm (... nẩy mầm)
  5. Bài ca này được Phụng vụ chọn cho chúng ta đọc buổi sáng lúc bắt đầu một ngày mới, nhằm nhắc chúng ta:
  • Hãy sống một ngày trong ánh sáng của “Vầng đông” Chúa Cứu Thế;
  • Hãy sống như Gioan: mở lối cho Chúa đến thăm anh chị em mình; loan báo tin vui cứu rỗi cho họ.
  1. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cà trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quấn áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại; Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối; Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).

Chúng ta hãy bắt đầu mỗi ngày mới với tâm tình của Dacaria trong bài ca Benedictus “Chúc tụng Thiên Chúa... cho Vầng đông từ chốn cao vời viếng thăm ta”.

 

2. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài thánh ca Benedictus (Lc 1,67-79)

  1. Khi Gioan được sinh ra, ông Giacaria rất vui mừng, và nhờ Thánh Thần soi sáng, ông cất tiếng cảm tạ ngợi khen Chúa là Đấng từ bi và thành tín. Người đã ban Đấng cứu dân Người, để họ an tâm phụng thờ Người, và sống thánh thiện công chính... Và ông cũng nói trước về vai trò của Gioan là Tiền hô, được Chúa sai đến dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Nhờ Gioan Tiền hô dọn đường, Chúa Cứu Thế đã đến cứu chuộc Dân Người và Mùa Vọng là Mùa chúng ta dọn đường cho Chúa đến với chúng ta; đặc biệt đến với những người đã biết Chúa mà bỏ Chúa. Chúng ta nối tiếp sứ mạng của thánh Gioan, dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với dân mới Người là Hội thánh.

  1. Khi ông Giacaria cho biết tên con trẻ là Gioan thì ông hết bị câm, ông đã mở miệng chúc tụng hồng ân Thiên Chúa đối với ông và toàn dân. Bài thánh ca Benedictus mở đầu bằng lời “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel” là một bài thánh ca tuyệt vời, đầy ắp những hình ảnh Thánh kinh và lời tiên tri trong Cựu ước, được đặt vào miệng ông Giacaria, thực sự là một lời tiên tri vừa đúc kết lại cả một lịch sử ơn cứu độ, vừa chuyển tiếp báo tin sự xuất hiện của “Vị Cứu tinh quyền thế” của “Vầng Đông từ chốn cao vời đến viếng thăm”. Bài Thánh ca làm dậy lên niềm vui và hy vọng của những ai cảm nghiệm mình có Chúa, được cứu độ, được tự do và bình an.

Bài Thánh ca Benedictus có những ý lớn này:

- Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa ơn cứu độ mà Ngài đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các tiên tri.

- Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông”đã xuất hiện mở màn một kỷ nguyên mới.

- Gioan sẽ là Tiền Hô cho Ngài: mở lối cho Ngài đi, và báo tin vui cứu độ cho nhân loại.

  1. Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện, mở màn cho một kỷ nguyên mới. Ngài là ánh sáng chiếu soi cho trần gian còn ở trong bóng tối của tội lỗi và sự chết.

Nói đến vai trò ánh sáng, Frank Mihalic đã mô tả ánh sáng với những lời thật súc tích như sau: “Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không thể lớn lên được và sẽ chết dần chết mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng”.

  1. Nhờ Đức Giêsu đến, Ngài mới mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa, vì trước đây loài người chỉ có vài ý niệm mơ hồ hoặc lệch lạc về Thiên Chúa, thậm chí còn vật chất hoá Thiên Chúa.

Người Hy lạp nghĩ đến một Thiên Chúa không tình cảm, vượt quá mọi nỗi buồn vui, nhìn xuống loài người với vẻ lạnh lùng xa cách, không tìm được một sự trợ giúp nào ở đó. Còn người Do thái thì nghĩ đến một Thiên Chúa khắt khe chỉ lo ban bố luật pháp, đóng vai quan toà và chỉ lo gieo rắc các mối đe dọa thôi. Đức Giêsu đã đến nói rằng: Thiên Chúa là Tình yêu và trong sự kinh ngạc sâu xa, con người chỉ có thể thốt lên rằng: “Chúng tôi chưa hề biết một Thiên Chúa như thế bao giờ”. Một trong những chức năng lớn của mầu nhiệm Nhập thể là đem loài người đến sự hiểu biết Thiên Chúa (R.Veritas).

  1. Khi Thiên Chúa giáng trần, Ngài sẽ đem lại cho dân ơn tha thứ và bình an. Vậy ơn đầu tiên mà thánh ca Benedictus nói đến là ơn tha thứ mà Thiên Chúa ban cho dân Người: “Người sẽ cứu độ, là tha cho hết mọi tội khiên...”. Chỉ khi lãnh nhận được ơn tha thứ này chúng ta mới cảm nghiệm được Niềm vui của Tin mừng mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến ngay từ những câu đầu trong tông huấn của Ngài: “Những ai chấp nhận quà tặng ơn cứu độ của Đức Giêsu sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn (Evangelii gaudium, số 1).
  2. Truyện: Hồng ân tha thứ

Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin mừng Gioan 3,16: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin Người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời.

Bà đáp:

- Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825, sinh lại 1925”.

_____________________________

Đêm Vọng Giáng Sinh (Mt 1, 18-25)

Emmanuen, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23)

BÀI ĐỌC I: Is 62, 1-5

“Ngươi đẹp lòng Chúa”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.

Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29

Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).

  1. Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. - Đáp.
  2. Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Đáp.
  3. Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Đáp.

 

BÀI ĐỌC II: Cv 13, 16-17. 22-25

“Thánh Phaolô làm chứng về Chúa Kitô, con vua Đavít”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Phaolô đến Antiôkia thuộc Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: “Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.

“Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: ‘Ta đã gặp được Đavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta’.

“Bởi dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước, khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ông tuyên bố: ‘Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người’“.

Đó là lời Chúa.

 

Tin mừng: Mt 1,18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

19 Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."

22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." 24 Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

 

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ông Da-ca-ri-a chúc tụng Thiên Chúa là Đấng trung thành thực hiện lời hứa cứu độ. Thiên Chúa kêu gọi Thánh Gio-an Tẩy Giả ra đời là để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Mỗi người khi chào đời có một sứ mệnh trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày Con Chúa giáng sinh làm người đã trở thành ngày lễ hội lớn cho toàn thể nhân loại. Hôm nay là đích điểm của hơn 2000 năm Chúa âm thầm chuẩn bị.

Vâng, khi con chiêm ngưỡng Hài Nhi bé bỏng trong hang đá Be-lem con thấy được bàn tay uy quyền của Chúa trải ra bao thế hệ. Chúa tuyển chọn Áp-ra-ham, Mô-sen, Đa-vít, Mẹ Maria, Gio-an Tẩy Giả... Tất cả là những chặng đường Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Lịch sử có những lúc thăng trầm, nhân loại có những lúc phản bội, nhưng phần Chúa, Chúa vẫn luôn trung tín với lời hứa. Chúa trung thành với giao ước ngay cả lúc chúng con bất trung. Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa và tin cậy vào lòng trung tín của Chúa. Xin Chúa giúp con đáp lại bằng sự trung thành phụng sự Chúa.

Trong lịch sử cứu độ, mỗi người khi sinh ra đều được Chúa trao cho một sứ mạng. Thánh Gio-an Tẩy Giả được Chúa cho ra đời chính là để làm ngôn sứ đi trước mở lối cho Chúa. Con được làm người cũng là vì Chúa muốn gọi con cộng tác vào chương trình cứu độ. Con cảm tạ Chúa đã cho con nhận lãnh bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, để nhờ đó con trở thành chứng nhân cho Chúa. Sứ mạng ấy vừa cao cả vừa khó khăn. Xin Chúa giúp con trung thành với hồng ân đã lãnh nhận. Amen.

Ghi nhớ“Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Trong ngày lễ đặt tên cho người con của mình, ông Dacaria được đầy trành Thánh Thần đã tuyên lời ngợi khen Thiên Chúa.

Bài thánh ca của Dacaria chính là lời tiên tri làm vọng lại sứ điệp của các ngôn sứ trong quá khứ, chuẩn bị tâm hồn toàn dân đón nhận hồng ân trong giai đoạn mới của lịch sử Dân Chúa.

Bài thánh ca có cung giọng thâm trầm, bình thản, tin tưởng. Đó là cung giọng của con người có đời sống nội tâm sâu xa, biết đón nhận mọi biến cố trong niềm hân hoan chúc tụng Chúa.

Dacaria chúc tụng Thiên Chúa của Israel, Đấng đã thực hiện sự giải thoát Dân Ngài bằng cách làm nẩy sinh trong nhà Đavít một ông vua quyền năng đem đến ơn cứu độ như các tiên tri đã loan báo, Dacaria cảm tạ Chúa đã tỏ lòng nhân nghĩa với Tổ phụ xưa, đã thực hiện lời giao ước, giữ trọn lời thề với Abraham. Sự cứu độ này không chỉ hệ tại sự giải thoát khỏi địch thù bên ngoài, nhưng Thiên Chúa còn muốn đưa chúng ta đến một thời đại thánh thiện và công minh dứt khoát đã được khai mào.

Sau khi ca tụng sự thăm viếng cứu độ của Thiên Chúa, trong tâm tình của con người thật sự hạnh phúc, Dacaria âu yếm hướng nhìn và nói tiên tri về sứ mạng của con người: với tư cách Tiền hô, con trẻ rồi đây sẽ công bố sứ điệp, chuẩn bị lòng dân đón nhận Đấng Cứu Thế, khơi dậy trong tâm hồn Dân Chúa lòng khát khao ơn cứu độ. Ơn cứu độ này được thực hiện suốt dòng lịch sử Dân Chúa và sẽ được hoàn hảo trong Giao Ước Mới khi Ngài tha thứ tội lỗi cho Dân Ngài.

Dacaria kết thúc bài thánh ca khi cho ta biết lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa được tỏ hiện vì Ngài chạnh lòng thương chúng ta. Chính vì lòng nhân nghĩa mà “Thái Dương từ cao xanh khấng viếng thăm ta". "Thái Dương" chính là Đấng Mêsia, Đấng Kitô của Thiên Chúa, nhờ đó Ngài sẽ soi sáng những kẻ ngồi trong bóng tói sự chết như những lữ hành lạc đường đợi trời sáng để tiếp tục cuộc hành trình, và dẫn đưa họ thẳng đường bình an.

Tâm tình của Dacaria mở ra con đường đầy hy vọng cho Dân Chúa.

Ước gì trong lúc chuẩn bị đón Chúa, chúng ta đừng quên nghĩ đến tình thương và muôn ơn lành Chúa ban cho chúng ta. Ước gì chúng ta thấm cảm được tâm tình của các chính thân trong luật cũ, và cố gắng thực hiện chương trình sống chứa đựng trong bài thánh ca Benedictus: "Phụng sự Chúa bằng cuộc sống thánh thiện, công chính mọi ngày trước nhan Ngài."


Tin liên quan

Linh mục CHÁNH XỨ

Linh mục CHÁNH XỨ

Cha Vinh Sơn

Nguyễn Văn Hồng

Từ năm 2022

Linh mục PHỤ TÁ

Linh mục PHỤ TÁ

Cha Giuse

Phạm Việt Dũng

Từ năm 2022

Copyright © Giáo xứ Tân Sa Châu
Thiết kế website bởi Công ty Cổ phần Phần Mềm Zozo